QUAN LỚN ĐỆ TAM
19/06/2022

QUAN LỚN ĐỆ TAM – THOẢI PHỦ

3.1. Tước phong

Thủy tào điển sứ – Đệ tam thủy thần nhạc đại vương thượng đẳng tối linh thần.

3.2. Tôn hiệu

 Đệ Tam Hoàng thái tử vương quan

(Ngài ngự thứ tư từ phải sang trái - nhìn từ ngoài vào trong cung Ngũ vị Tôn ông; Mặc áo bào mầu trắng, đội mũ cánh chuồn).

3.3. Thần tích:

Thần tích thứ nhất Lưu truyền trong nhân gian và các Thanh đồng của Tín ngường thờ Mẫu: Ngài là con Vua Thủy quốc Động đình cùng hai người anh em giáng sinh vào một gia đình quí tộc ở đất Hà Nam thời Hùng Vương, (có sách nói là hai người thân cận) được nhân dân tôn là “Tam Vị Đại Vương”. Khi Vĩnh Công (Vua cha Bát hải Động đình) chiêu mộ quân tướng đánh giặc Thục, Ông và Quan Đệ nhất cùng Quan Đệ Tứ là ba vị Tướng đầu tiên hội quân, Ông được giao thống lĩnh ba quân cùng Quân sư Nuồi và quan đệ Ngũ chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng. Sau này trong một trận đánh, ông đã hy sinh, xác ông bị chém làm đôi, phần thượng thân (đầu) trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, dân làng lập Đền thờ Ông gọi là Đền Xích Đằng, phần hạ thân trôi vệ bãi sông thôn Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam, dân làng đã lập đền thờ Ông gọi là Đền Lảnh Giang. Ông hoá đi về chầu Long Cung, được giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan. Vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng.

Thần tích thứ hai Tại Đền Lảnh Giang huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam: Thần tích này giống Thần tích về Vua Cha Bát hải động đình, đặt ra câu hỏi lớn Thần tích nào là chính xác?

Do đã hơn 2 ngàn năm lịch sử lại chìm trong hơn 1 ngàn năm Bắc thuộc nên lịch sử nước ta trước thời Bắc thuộc hầu như không còn sách ghi chép mà chỉ còn tồn tại qua truyền khẩu trong dân gian. Qua nghiên cứu thực tế và sự chiêm nghiệm của bản thân, tác giả thấy rằng Thần tích thứ nhất về Quan lớn Đệ tam tại Đền Lảnh giang là phù hợp nhất.

Thứ nhất: Tích này phù hợp với Tôn tượng Quan Đệ tam tại Đền Lảnh Giảng chỉ có phần hạ thân, còn phần Thượng Thân (phần Đầu) thờ tại Đền Xích Đằng – Hưng Yên, tích viết:“trong một trận đánh, ông đã hy sinh, xác ông bị chém làm đôi, phần thượng thân (đầu) trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, dân làng lập Đền thờ Ông gọi là Đền Xích Đằng, phần hạ thân trôi vệ bãi sông thôn Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam, dân làng đã lập đền thờ Ông gọi là Đền Lảnh Giang”. Còn tại Đền Đồng bằng Tôn tượng Vua cha có đầy đủ thân phàm, mặc áo mầu trắng, một số nét được tạc giống như trang phục thời Hùng vương mà ta thường thấy ở các tôn tượng tại Đền Hùng – Phú Thọ - Đó là theo tích Ngài là Đệ tam vương quan ở Long cung lên giúp Hùng Duệ Vượng đánh giặc thục khi đất nước được hòa bình thì Ngài hóa, do đó thân phàm vẫn còn nguyên vẹn.

Thứ hai: Tích này nói rằng Quan lớn Đệ tam là con Vua Thủy Quốc Động đình cùng hai người em giáng sinh vào nhà Quí tộc tại đất Hà Nam hội quân với Vua cha Bát hải động đình đánh giặc Thục “Ở đây chúng ta cần phân biệt rõ: Long Vương - Vua Thủy quốc Động đình và Vua cha Bát hải động đình hoàn toàn là 2 vị Thần - Thánh khác nhau: Vua Long vương là ở dưới Thủy cung – Một vị Thần được nhân dân tờ cúng từ thời nước ta còn là nước Xích Quỷ - Bách Việt xưa, còn Vua cha Bát hải Động Đình theo Tích tại Đền Đồng Bằng là Tam Thái tử con Vua Long Vương, giáng sinh thời Vua Hùng Vương, là vị tướng đánh giặc được Vua nước Văn Lang (Hùng Duệ Vương) phong Vương. Do đó Quan lớn Đệ Tam không thể là “Đệ tam Thái tử” con Vua Long vương – Thủy quốc Động Đình. Ở tích này phân tích rõ yếu tố “hai người em” thấy rằng cả 3 anh em đều là con Vua Long Vương. Tích ở đền Đồng Bằng ghi rõ Quí Nương sinh ra cái bọc có 3 Hoàng xà, 1 ở Đào Động, 1 về Do Trang, 1 về An Cố Trang, khi Vĩnh công hiệu triệu quân tướng cả hai người em cùng về theo đánh giặc, sự trùng hợp ở đây là Vua cha Bát hải có 2 người em và Đền Lảnh Giang thờ 3 Anh em và có một Thần tích của Đền Lảnh Giang giống y hệt Thần tích của Đền Đồng Bằng – Điều này đặt ra giả thuyết có phải Đền Lảnh Giang cũng thờ Vua Cha Bát hải Động đình nhưng với tên là Quan lớn Đệ Tam hay thờ 1 trong 2 người em của Vua Cha Bát Hải Động đình nên mới vừa có tiệc vào tháng 6 và tháng 8.

- Giả thiết thứ nhất không phù hợp vì Vua Cha Bát Hải hóa vào thời bình bình, sau khi đã đánh tan giặc Thục và tôn tượng của Ngài vẫn bao gồm cả Thượng và Hạ thân, còn Quan lớn Đệ Tam hóa khi còn đang đánh giặc Thục, Thượng thân trôi về Xích Đằng còn Hạ thân trôi về Lảnh Giang và Tôn tượng ở Đền Lảnh Giang chỉ có phần Hạ thân từ Vai trở xuống.

- Giả thiết thứ hai phù hợp hơn vì gồm đủ cả yếu tố: Quan lớn Đệ tam là một trong 3 anh em của Vua Cha Bát Hải Động đình, vì đều có xuất thân (giáng trần) từ Thủy cung giống nhau, Đều đánh giặc Thục (Thục Vương) và Điều đặc biệt là rất phù hợp với Tín ngưỡng thờ Mẫu - theo đó Quan lớn Đệ tam là một trong 10 vị Tướng của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Điểm khác biệt lớn nhất là ngày tiệc chính của Quan lớn Đệ tam là ngày 24/6 (dành cho dân thôn bản hạt) còn tiệc ngày 25 tháng 8 chỉ dành cho khách thập phương (do đó không phải tiệc chính). Theo phong tục tập quán của người Việt thì không có tiệc mừng ngày đản sinh mà chỉ có ngày giỗ (ngày mất) các Vị Thánh trong Tứ phủ cũng vậy - Tiệc đều tổ chức vào ngày Hóa. Có thể ở đây tổ chức tiệc ngày 25/8 là để dành cho khách thập phương sau khi giỗ Vua Cha Bát Hải ngày 22/8 và Quan Đệ Nhất ngày 24/8 về qua lễ ngài, sau dần thành lệ cho đến ngày nay.

3.4. Thờ phụng: Hiện nay trên nước ta có 2 ngôi đền chính Đền Lảnh Giang: Thôn Yên Lạc, Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam và Đền Xích Đằng: Phường Lam Sơn, Hưng Yên. Ngoài ra còn nhiều Đền Điện thờ Ông như: Đền Cửa Đông tại TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải); đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội; đền Quan Tam ở khu quân thể đền Đồng Bằng và đền Tam Kì thuộc TP Hải Phòng (gần bến xe Tam Bạc). Ngày tiệc Quan Lớn Đệ Tam là ngày 24/6 âm lịch, dân gian còn gọi đây là ngày đản sinh của Ngài.

3.5.  Ngự đồng: Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ.

3.6. Sắc phong

Hiện còn lưu giữ 12 sắc phong, Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10, sắc này có nội dung: “Sắc cho xã An Lạc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”. Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng.

3.7. Văn chầu

Trịnh giang biên giành ngân lai láng
Đôi vầng hồng soi rạng nam minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng
Dọc:
Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc
Bẩm sinh thành tư chất long nhan
Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan
Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ
Trấn nam minh quy đủ bốn phương
Ra uy chấp chính kỉ cương
Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

Chốn long giai cầm quyền thay chúa
Phép màu quan tối tú tối linh
Lệnh truyền thủy bộ chư dinh
Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang
Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la

Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình
Chốn ấy là chốn thủy cung
Phú:
Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan
Đệ tử con tiến văn đàn
Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử

Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2)
Người con vua thoải quốc động đình
Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử

Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao
Bẩm dung y diện mạo hồng hào
Ngôn trung chính tài cao quán cổ
Thơ:
Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng
Xông pha trăm trận dạ như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với núi sông
Xá lửng:
Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích
Đưa quân chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu

Có phen ngự sông Dâu sông Hát
Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi
Có phen vào lạch ra khơi
Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa

Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người

Có phen chơi cửa đài cửa bích
Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi
Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi
Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về

Trải giang khê lên ngàn xuống bể
Lảnh Giang từ quý địa danh lam
Đền thờ quan tam tía kiệu vàng
Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi

Hóa tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về thủy quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang

Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả
Kéo quân về đóng ngã ba Tranh
Xướng ca đàn hát tập tành
Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời

Có phen lại về nơi thủy phủ
Đóng cân đai áo mũ vào tâu
Dăm ba đồng tử theo hầu
Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương

Cũng có khi phi thường biến hóa
Qua Nghệ An thượng hạ đại giang
Thuyền rồng chèo quế buồm lan
Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu

Có phen ngự Nam lâu Bắc điện
Trở ra về đến huyện Thiên Tôn
Dạo miền thác cái thác con
Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ

Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo
Truyền chư quân đôi đạo tiên phong
Chuông kêu cờ phất trống dong
Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh

Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi
Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn
Triều thần văn vũ bách quan
Sai lên đón rước vương quan về chầu

Trên các lầu thơ ngâm phú đọc
Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên
Vua cha giá ngự ngai vàng
Phán đòi thái tử vương quan vào chầu

Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ
Sai ông lên cứu trợ trần gian
Một tay thái tử vương quan
Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều

Nay ông đã về chầu nhân đức
Độ nhân gian vạn ức siêu sinh
Nay ông về chốn thủy đình

Cuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

024.629.11169